Trong lịch sử Gà

Tranh vẽ hai con gà đang đá nhau

Gà chắn hẳn đã sớm được thuần hóa ở Đông Nam Á do từ ngữ để chỉ gà nhà (*manuk) là một phần của ngữ hệ Nam Đảo nguyên thủy. Gà, chó và lợn là những vật nuôi trong nền văn hóa Lapita[30] - nền văn hóa thời đồ đá mới đầu tiên của châu Đại Dương.[31] Tranh vẽ đầu tiên về gà ở châu Âu được tìm thấy trên món đồ gốm Korinthos niên đại thế kỷ VII trước Công nguyên.[32][33] Nhà thơ Cratinus gọi gà là "cái chuông cảnh báo của Ba Tư". Vở hài kịch Những Con Chim của Aristophanes (414 trước Công nguyên) gọi gà là "chim Media", ý chỉ nguồn gốc của gà là từ phương Đông. Hình ảnh về gà có trên đồ gốm đỏ và đen của Hy Lạp. Ở Hy Lạp cổ đại, gà còn hiếm và là loại thực phẩm khá danh giá trong các tiệc rượu đêm Hy Lạp. Đảo Delos dường như từng có một trung tâm gây giống gà.

Người La Mã cổ đại dùng gà trong thuật bói chim để nhận lời tiên tri. Một người (gọi là pullarius) sẽ chăm sóc gà, khi nào cần bói thì ông ta sẽ mở lồng và cho nó hạt đậu hoặc một loại bánh ngọt mềm đặc biệt. Nếu con gà ở nguyên trong lồng và gây ra tiếng động ("occinerent"), đập cánh hoặc bay đi thì đó là điềm xấu; nếu con gà ăn ngấu nghiến thì là điềm tốt.[34] Năm 249 trước Công nguyên, trước trận chiến Drepana, vị tướng La Mã là Publius Claudius Pulcher đã sai người vứt "những con gà thiêng"[35] xuống biển do chúng từ chối ăn. Ông còn nói "Nếu chúng nó không ăn thì có lẽ chúng muốn uống nước". Ngay lập tức ông bại trận dưới tay người Carthago và 93 thuyền của La Mã bị đắm. Khi trở về Roma, ông này bị xử tội bất kính và chịu hình phạt nặng nề.

Năm 162 trước Công nguyên, La Mã ra luật Lex Faunia cấm vỗ béo gà mái nhằm để đảm bảo lượng ngũ cốc tích trữ. Do vậy dân La Mã chuyển sang thiến gà trống, kết quả là kích cỡ gà tăng gấp đôi,[36] mặc cho luật của La Mã quy định không được phép ăn gà đã vỗ béo. Luật này được sửa đổi nhiều lần, tuy nhiên dường như không thu được thành công. Sách Apicius viết về ẩm thực của La Mã đã liệt kê 17 món ăn làm từ gà, phần nhiều là các món luộc ăn kèm nước sốt. Người chế biến tận dụng mọi phần của con vật: dạ dày, gan, tinh hoàn và thậm chí cả phần xương bánh lái béo ngậy của con gà (nơi lông đuôi mọc).

Tác giả người La Mã là Columella có nêu lời khuyên về lai giống gà trong quyển thứ tám của bộ chuyên luận về nông nghiệp của ông. Ông xác định có các giống gà gồm Tanagra, Rhodes, Chalcidice và Media (thường bị nhầm thành Melia) - những giống có bộ dạng ấn tượng, bản tính hung hăng và được dùng trong trò chơi đá gà của người Hy Lạp. Tuy nhiên, trong chăn nuôi thì gà bản địa La Mã hoặc gà lai giữa gà mái bản địa và gà trống Hy Lạp lại được ưa chuộng hơn. Cũng theo Columella, một đàn gà lý tưởng nên có khoảng 200 con, có thể do một người trông coi. Nên tránh nuôi gà trắng do chúng không mắn đẻ và dễ bị đại bằng hay chim ó bắt mất. Tỷ lệ gà trống:gà mái nên là 1:5. Riêng gà trống giống Rhodes và Media do có cơ thể to lớn nên không ham muốn giao phối nhiều, vì thế tỷ lệ trống:mái chỉ là 1:3. Gà mái càng to lớn thì càng ít ấp trứng, do vậy tốt hơn hết là để gà mái bình thường ấp số trứng đó. Một gà mái có thể ấp không quá 15-23 quả trứng - phụ thuộc vào thời điểm trong năm - và chăm lo không quá 30 gà con mới nở. Trứng dài và nhọn thì thường nở ra gà trống trong khi đa số trứng tròn thì nở ra gà mái. Columella cũng cho rằng chuồng gà nên quay mặt về hướng đông nam và đặt gần nhà bếp do khói bếp có lợi cho chúng; ông viết "gia cầm sống khỏe nhất trong hơi ấm và khói".[37] Chuồng gà nên có ba gian và có lò sưởi. Nên cho gà tắm trong bụi khô hoặc tro. Columella khuyên cho gà ăn lúa mạch, đậu xanh, hạt kê và cám làm từ lúa mì nếu chúng rẻ tiền. Không nên cho gà ăn thẳng lúa mì do loại lương thực này có hại cho chúng. Ngoài ra có thể cho ăn rơm rạ đã nấu (Lolium sp.), lá và hạt của cỏ linh lăng Medicago sativa L.. Có thể cho gà ăn bã nho, tuy nhiên chỉ nên làm điều này khi gà mái đã ngừng đẻ (tức vào thời điểm giữa tháng 11), bằng không gà sẽ đẻ ít trứng và trứng nhỏ. Khi cho gà ăn bã nho, cần chú ý bổ sung cám. Gà mái bắt đầu đẻ trứng sau Đông chí, khoảng đầu tháng 1 ở những vùng ấm áp và khoảng giữa tháng 2 ở những vùng lạnh hơn. Lúa mạch nấu sơ có tác dụng làm tăng khả năng sinh sản ở gà; nên trộn thứ này với lá và hạt cỏ linh lăng hoặc trộn kèm với đậu tằm hay hạt kê nếu không có cỏ linh lăng. Đối với gà thả vườn, mỗi ngày nên cho chúng ăn hai tách lúa mạch. Columella khuyên nhà nông nên giết thịt gà mái trên 3 tuổi do chúng không còn khả năng đẻ nhiều trứng.

Các nhà đi biển người Polynesia đã mang gà phát tán ra nhiều nơi. Gà đến đảo Phục Sinh vào thế kỷ XII. Ở đây gần như chúng được xem là loài vật nuôi duy nhất. Dân bản địa nuôi gà trong những cái chuồng xây vững chắc bằng đá.[38]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gà http://123.25.71.107:82/hoidap/vi/news/Chan-nuoi/B... http://123.25.71.107:82/hoidap/vi/news/Chan-nuoi/B... http://www.backyardchickens.com/LC-hatch.html http://www.brinsea.com/pdffiles/Brinsea_Handbook.p... http://www.britannica.com/eb/article-9111040 http://abcnews.go.com/Technology/story?id=1666805 http://books.google.com/books?id=AGUPAAAAYAAJ&pg=P... http://books.google.com/books?id=FJ9ULYwX3zgC&pg=P... http://books.google.com/books?id=NrIapgM4LwQC&pg=P... http://books.google.com/books?id=PTECAAAAQAAJ&pg=P...